Ông Đạo Nhỏ
Ông Đạo Nhỏ
● http://www.vietnamvanhien.org/OngDaoNho.pdf
● https://thongluan-rdp.org/van-hoa/item/6253-ong-d-o-nh
● https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?p=3579715
● https://soundcloud.com/thanhtong-pham/thieu-tuong-nguyen-van-chuc-ke-chuyen-ong-dao-nho
chính Thiếu tướng Nguyễn Văn Chức
kể về Ông Đạo Nhỏ
Chuyện dưới đây viết theo lời kể của Thiếu Tướng Nguyễn văn Chức:
Nguyễn Văn Hiệp
Năm 1968 sau trận Tết Mậu Thân, vị tư lịnh Quân Đoàn IV bấy giờ là Thiếu
Tướng Nguyễn Viết Thanh có rước một ông Đạo từ trên Hồng Ngự xuống. Ông Đạo nầy
lúc đó chỉ 8 tuổi nên được gọi là Ông Đạo Nhỏ. Ông là con của ông Trần Kim Qui,
hiệu trưởng một trường học ở quận Hồng Ngự, người theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo.
Buổi chiều nọ, khi tới dự bữa cơm tối tại tư dinh Thiếu Tướng Tư Lịnh Quân Đoàn
IV, tôi thấy ngồi ở đầu bàn là một người còn nhỏ tuổi, quanh đó có mặt các ông
đại tá và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh Tư Lịnh phó lãnh thổ của quân đoàn. Trong
chín ông đại tá có cả đại tá Nguyễn Văn Ánh là Tư Lịnh Sư Đoàn 4 Không Quân
(ông nầy sau đó lên thiếu tướng và bị tử nạn máy bay). Khi mọi nguời vào bàn ăn
thì được ông tướng tư lịnh quân đoàn giới thiệu: «Đây là Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự được mời tới đây để ăn cơm với chúng ta.»
Tiếp theo, ông giới thiệu từng thực khách với Ông Đạo Nhỏ một cách hết sức trân
trọng. Chỉ với người khoảng 8 tuổi mà tôi thấy Tướng Nguyễn Viết Thanh đối xử
trang trọng lắm. Mọi người đều dùng cơm chay vì Ông Đạo Nhỏ không ăn mặn. Sau
khi cơm nước xong xuôi, mỗi người được phân phát một tờ giấy và một cây viết
chì. Tướng Thanh nói rằng: «Ông Đạo Nhỏ
biết rất rành quá khứ vị lai (tức chuyện về trước, chuyện về sau) nhưng vì
không nói chuyện được nên chỉ trao đổi bằng giấy viết.» Vậy là mỗi người
viết câu hỏi mà mình muốn hỏi lên tờ giấy rồi chuyền tay đưa tới Ông Đạo Nhỏ.
Đầu tiên là ông Tư Lịnh Quân Đoàn Nguyễn Viết Thanh viết một câu hỏi đưa qua,
Ông Đạo Nhỏ cầm viết, viết rào rào (nghĩa là viết rất nhanh) bằng chữ quốc ngữ,
xong rồi đưa lại cho ông Thanh. Ông Thanh coi xong bèn úp tờ giấy xuống mặt
bàn. Sau đó là tới lượt ông chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh vì ông và ông Thanh
ngồi hai bên Ông Đạo Nhỏ. Ông Đạo Nhỏ viết câu trả lời toàn bằng thơ, tôi ngồi
gần nên liếc thấy hầu hết là thơ ngũ ngôn (mỗi câu năm chữ) sau ông Đại tá Ánh,
Tư Lịnh sư đoàn 4 KQ là các ông đại tá khác trong đó có Đại Tá Huỳnh Văn Lạc
Tham Mưu Trưởng (sau nầy cũng lên tướng và đang sống ở Sacramento, CA.). Tôi
nhường hết cho mọi người chờ đến lượt cuối cùng, tôi viết trong giấy là: «Xin Ông Đạo Nhỏ cho biết tương lai vận mệnh
của tôi trong cuộc chiến tranh nầy?» Tôi đưa cho ông Thanh, ông Thanh coi
qua một chút rồi chuyển cho ông. Ông Đạo Nhỏ viết xuống mấy chữ chuyền tới lui
thì ra ông viết rằng «đưa về nhà rồi sẽ
cho sau.» Ông không cho liền trong khi mấy ông kia thì trả lời ngay.
Sau đó, Ông Đạo Nhỏ tỏ ý muốn đi ra đằng sau chơi, ông tướng đích thân
dẫn Ông Đạo Nhỏ ra phía sau hàng ba để ông đi lại nơi cái bàn có cái ghế và
ngồi chơi một mình. Số người còn lại trong nầy chuyền tay nhau những tờ giấy có
câu trả lời của Ông Đạo Nhỏ, không ai dấu diếm. Tôi đọc bài thơ của ông Thanh
thì câu cuối cùng mà Ông Đạo Nhỏ viết là «Tu
mau đi kẻo muộn!» Còn bài thơ của ông Đại Tá Ánh, của ông Đại Tá Trưởng
Phòng Nhì cũng viết là «Tu mau đi kẻ
muộn!» Cả ba ông đều có một câu kết như nhau. Riêng của ông Hạnh thì Ông
Đạo Nhỏ cho một bài thơ Đường Luật gồm 8 câu 7 chữ, câu cuối cùng là «Thân bại danh liệt tướng miền Tây,» tôi
chỉ nhớ câu chót thôi không thể nhớ hết nguyên bài. Mấy người còn lại trong đó
có một ông đại tá người Huế làm bên Tiếp Vận Vùng 4 cũng được một bài thơ nhưng
bình thường thôi, không có gì đặc biệt. Sau khi bàn luận qua lại một hồi rồi
giải tán. Thiếu Tướng Thanh nói với tôi là Ông Đạo Nhỏ muốn về nhà của tôi và
sau đó nhờ tôi đưa Ông Đạo Nhỏ về Hồng Ngự. (vì tôi có một chiếc trực thăng
riêng muốn xử dụng lúc nào cũng được). Tôi chở Ông Đạo Nhỏ về nhà rồi kêu chú
lính trực đem một cái ghế bố với đầy đủ mùng mền cho ông nghỉ ngơi ngay tại
phòng khách (ban tối, chú lính mở ghế bố ra rồi đến sáng thì thu dọn lại sạch
sẽ).
Khi tôi xuống Cần Thơ làm việc, vợ tôi giao cho tôi đứa con gái lớn đang
học lớp Bảy nên phải xin chuyển trường cùng với ba đứa con trai nhỏ nhứt (còn
mấy đứa lớn đang học ở Sài Gòn) gồm đứa 7 tuổi, 6 tuổi và 5 tuổi. Mỗi ngày, đứa
con 7 và 6 tuổi thì đi học còn đứa 5 tuổi vẫn còn ở nhà chơi với Ông Đạo Nhỏ
nhưng ông lại không thích chơi giởn. Sáng dậy, tôi và Ông Đạo điểm tâm bằng
cháo trắng, trong khi tôi ăn với đường hay thịt cá thì ông ăn ba chén đàng
hoàng nhưng với muối. Đặc biệt là dù trời lạnh hay nóng ông cũng đều thích ra
ngồi phía sau nhà, nơi nầy tôi có che một cây dù nhà binh, ông huớng mắt về
phía Nghĩa Trang Quân Đội ngồi yên, không nói gì cả cho tới trưa khi tôi đi làm
về thì vào ăn cơm chay với tôi. Sau bữa ăn cơm tối, tôi viết mấy câu nhắc lại
câu hỏi của tôi lúc trước thì ông trả lời là «hãy đợi đến ngày Rằm» tức là khoảng 7, 8 bữa nữa. Trong thời gian
lưu ngụ đó, nhiều khi con tôi đi học về đến nắm tay, nắm chân kéo ra ngoài chơi
giỡn nhưng ông cứ ngồi im thin thít không nói, không rằng, và không thích vui
đùa như mấy đứa con nít cùng trang lứa.
Đến ngày Rằm, tôi cho mấy đứa con đi ngủ sớm, đóng cửa phòng không cho
ra ngoài, rồi chuẩn bị vào phòng khách để đàm đạo với ông. Ông Đạo viết lên
giấy biểu tôi đốt hai cây đèn cầy đỏ thật lớn để trên hai cái chân đồng và tắt
hết đèn điện. Sau đó, ông biểu tôi lấy ra một tập giấy học trò 200 trương và
một cây viết nguyên tử. Ông bắt đầu viết lên tờ giấy: «Ông cứ đặt câu hỏi và viết lên đây mỗi trang giấy là một câu hỏi!»
Còn nhớ, khi ông cho mấy ông tướng, tá kia thì mỗi người chỉ được một bài thơ
còn riêng tôi thì cả một cuốn tập 200 trương. Đại ý những điều ông viết về vận
mệnh cho tôi như thế nầy là: «Khi tôi về
già, cái mệnh của tôi cũng như ông Khương Thượng (tức Khương Tử Nha) đời nhà
Châu giúp vua Châu diệt nhà Thương (hoàn toàn được viết bằng những bài thơ). Về
già, tôi sẽ đảm nhận vai trò giống như ông Khương Tử Nha ngồi câu trên sông Vị
Thủy chờ Châu Văn Vương tới rước làm đại tướng quân cầm quân đánh vua Trụ chớ
không phải như lúc còn trẻ.» Ông còn viết thêm là «ông có quyền hỏi tất cả những gì mà ông muốn biết.» Thế là, tôi lật
trang kế tiếp, tôi hỏi về chuyện quốc gia, đến khi hết chuyện quốc gia là đã
lên tới 100 trương rồi nhưng ông cứ cho hỏi hoài từ 7 giờ tối tới 12 giờ khuya.
Tôi hỏi đâu, ông cho đó. Đặc biệt, tất cả đều trả lời bằng một bài thơ chớ
không phải văn bình thường. Tôi không hiểu tại sao một người chỉ mới 8 tuổi mà
làm thơ đủ vần, đủ điệu như vậy. Tôi thử ông tới những bài thơ Đường Luật thất
ngôn bát cú, luôn cả bài toàn chữ B. Ông cũng cho tôi bài thơ Quốc Ngữ khởi đầu
toàn là chữ B mà lại viết liền không cần suy nghĩ. Thật là một người có bộ óc
thông minh kinh hồn không thể tưởng tượng được. Về chuyện trong nước thì cuối
cùng ông phán trong một bài thơ, đại ý là: «Miền
Kế đó tôi hỏi về chuyện thế giới thì được trả lời đến gần 100 bài nữa,
trong đó có hai bài hỏi về Hội Long Hoa. Tôi hỏi: «Hội Long Hoa thành lập ở đâu, do ai chủ trì và giải quyết chuyện gì?»
Vấn đề nầy ông không trả lời nhưng ông vẽ một cái hình lên trên tờ giấy. Ông vẽ
một khán đài rồi vẽ một cái vòng tròn. Ông vẽ một mũi tên chỉ vô để «người» tức là nhiều người ngồi trên đó,
rồi phía dưới ông vẽ hình người mà cả hàng ngàn, hàng ngàn người ngồi ghế bên
dưới. Còn vùng đó là vùng có núi mà là núi thấp; ông không nói địa điểm chỗ nào
nhưng nhìn xa xa thấy toàn là núi, còn chỗ hội họp là giữa hai cái núi, ông vẽ
sơ sơ vậy thôi. Sau đó, ông vẽ cái dấu tròn phiá trước, kế đó là cái dấu tròn
thứ hai; cái dấu đầu tức là có người ngồi trước, rồi ông vẽ một mũi tên chỉ vào
dấu thứ hai đó, ông viết chữ «ông»
tức là tôi sẽ là người thứ nhì ngồi ở Hội Long Hoa. Đến nay, khi tôi kể lại tôi
còn cảm thấy run cả người bởi vì Hội Long Hoa là một chuyện trọng đại và phi
thường giải quyết cả một vận hội thế giới chớ không phải cho riêng nước mình thôi
đâu.
Rồi khi tôi hỏi đến chuyện thế giới chiến tranh thứ III thì ông cho bài
thơ trả lời, đại ý là chuyện đó sẽ phải xảy ra và thế giới cũng bị tận diệt rồi
sau đó mới lập Hội Long Hoa (nghĩa là khi chiến tranh thế giới thứ III chấm dứt
mới có Hội Long Hoa). Sau đó tôi kêu chú lính chạy đi lấy cho tôi một bản đồ
thế giới rất lớn mang đến và cả bản đồ Việt
C n bên Âu châu thì quốc gia nào cũng bị thiệt hại một phần hết. Nước
nào ông cũng bôi bỏ chỗ nầy, chỗ kia rồi chỗ kia, chỗ nọ; cuối cùng chỉ còn lại
hai chỗ là Úc châu và Tân Tây Lan. Tôi hỏi ông về phần đất Úc châu thì ông cho
một bài thơ cho biết đó là thánh địa không có bị động chạm gì tới và Tân Tây
Lan cũng như Úc châu đều còn nguyên vẹn. Các quốc gia con con ở gần Bắc Băng
Dương và Nam Băng Dương thì nơi nào cũng bị đánh phá, chỉ trừ có Úc Châu và Tân
Tây Lan mà ông cho là thánh địa.
Đến đây, tôi nói với ông là cũng đã khuya rồi, chú lính đã giăng mùng
sẵn, mời ông đi nghỉ. Về chuyện hậu vận của tôi, tôi cũng có hỏi và được giải
đáp đầy đủ nhưng vì thuộc về cá nhân nên tôi không thể nói được, ngoại trừ việc
về già giống trường hợp ông Khương Thượng như đã nói ở phần trên. Bởi vì tin
vào vận mệnh đó mà tôi mới dám qua Campuchia ở 10 năm và chiến đấu bên đó từ
năm 1984 đến năm 1994.
Sáng hôm sau ông viết lên giấy đòi về nhà, tôi cho gọi trực thăng tới để
đưa ông đi, ông viết cho tôi là «tôi biết
ông có đủ khả năng để xây cất một cái miếu đường cho tôi để tôi có chỗ ở mà thờ
phượng.» Tôi trả lời «Được, tôi sẽ
giúp Ông Đạo Nhỏ.» Ông cầm tờ giấy đó xếp lại và bỏ vào túi. Tôi đưa ông ra
trực thăng bay lên núi Sam (Châu Đốc) kiếm ông thiếu tá Công Binh của tôi đang
bắn đá ở đó, tôi gọi Radio trước cho ông nầy nên trực thăng vừa tới là ông leo
lên cùng bay về Hồng Ngự với tôi và Ông Đạo Nhỏ. Khi trực thăng đậu ngay sân
Chi Khu là có sẵn chiếc xe Jeep chờ sẵn chở chúng tôi đến nơi mà Ông Đạo Nhỏ
muốn xây cất miếu. Nhà ông ở cũng gần chợ Hồng Ngự, ông viết giấy đưa cho tôi
nói đây là đất nhà của ông. Tôi nói với ông thiếu tá: «Thiếu Tá cố gắng giúp Ông Đạo Nhỏ xây cái miếu ở đây còn phương tiện
hay cần vật liệu gì, Thiếu Tá cứ viết giấy về Liên Đoàn lãnh vật liệu lên làm»,
tức là tôi cung cấp toàn bộ và cho các anh em Công Binh gồm cả một tiểu đội để
việc xây cất càng nhanh càng tốt. Ông Đạo Nhỏ lấy giấy viết vẽ sơ sơ ra cái nền
vuông, rồi ngăn vách phân biệt nơi nào để thờ phượng, nơi nào là chỗ ngủ của
ông, chỗ để quần áo, nơi thay quần áo, rồi chỗ ở của người tu chung với ông,
rồi cái bếp, cái nhà tắm, cầu tiêu. Nơi nào ông cũng có viết chữ trong đó, ông
vẽ khéo lắm như một kiến trúc sư vậy. Ông còn cho cả chiều ngang khoảng 12
thước còn chiều xuôi chừng 16-18 thước. Diện tích cũng giống như một căn nhà
chớ không nhỏ lắm, còn trên cái nóc thì muốn làm sao cứ làm. Riêng phía trước
chỗ phần thờ phượng thì chiếm 1/3 căn nhà có xây một cái trang ở trên, rồi có
cửa trước và có cửa ra vô hai bên hông. Công tác nầy do anh em Công Binh hoàn
thành khoản 20 ngày dưới sự chỉ huy của Thiếu Tá Hoàng Bá Hải (Ông nầy có lẽ là
người Nha Trang nhưng nói giọng miền
Cứ cầm tập thơ viết đầy 200 trương nầy coi đi coi lại hoài, nghiền ngẫm
những điều ghi trong đó, sau đó tôi cầm về Sài Gòn cẩn thận cất vô tủ sắt trong
nhà. Tôi có người bạn là bác sĩ Nguyễn Bá Khả (có người em là bác sĩ Nguyễn Bá
Tín), người Bắc di cư năm 1954, cha mẹ vẫn còn sống và đang ở chung với ông ở
Cư xá Lữ Gia, Sài Gòn. Ông bác sĩ nầy rất đàng hoàng và nhân ái. Trước cửa
phòng mạch của ông ở đường Gò Công, Chợ Lớn có dán tờ giấy ghi là «Kẻ nghèo khổ và người tu hành được khám bịnh
miễn phí.» Ông làm tổng trưởng Y Tế trong thời gian Nguyễn Cao Kỳ là chủ
tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Khi ông đi họp bên Phi Luật Tân thì ở bên nhà
ông chánh văn phòng của ông là người miền Nam bị ông Kỳ ra lịnh cho đại tá
Liễu, giám đốc Cảnh Sát bắt đem giam trong khám Chí Hòa. Nhóm trí thức và dân
biểu gốc miền
Tháng sau, tôi trở về Sài Gòn thăm vợ con, tôi mở tủ sắt ra coi lại thì
quyển sách của tôi đã bị mất, luôn cả bản đồ vẽ đủ thứ trên đó cũng bị mất. Tôi
nhớ bác sĩ Nguyễn Bá Khả cũng có coi qua bản đồ nầy! Tôi hỏi bác sĩ Khả có nói
với ai về quyển sách nầy không, ông trả lời: «Tôi với anh là bạn mà. Tôi coi xong rồi thôi, có nói với ai đâu!»
Tôi cố tình tìm kiếm vẫn không ra rồi từ từ cũng không còn nhắc tới nữa, nhưng
tôi tiếc lắm. Lâu lâu tôi cũng muốn giở ra coi để biết thời cuộc, vì đây là
sách thiên cơ mà tôi tin tưởng.
Năm 1975 khi tôi sang được Hoa Kỳ, ở thành phố
Năm 1978 có hai vợ chồng ông thiếu tá gốc Phật Giáo Hòa Hảo ở Nam
California lên
Thiếu tá nầy quê ở Rạch Giá có vợ ở Hồng Ngự, ông là tiểu đoàn trưởng Sư
đoàn 9 Bộ Binh nhưng sau biến cố 1975, vợ chồng ông trở về Hồng Ngự trốn lánh,
nhờ bà con chung quanh che chở không ai tố giác thành ra ông không phải đi
không bị đi tù cộng sản. Nhà bên vợ có một miếng ruộng ở giữa đồng nên vợ chồng
ra đó làm ruộng từ năm 1975 đến năm 1977 mà không bị bắt. Ông nói, ông có đến
gặp và biết Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự. Ông Đạo ở đó lo tu hành và chữa bịnh. Những
bịnh nhẹ và ma quỷ thì ông làm hay lắm còn về nóng lạnh hoặc sốt rét thì chữa
không được khá, đặc biệt, bịnh thuộc về ma hành quỷ bắt hay điên loạn thì ông
chữa đươc hết.
Một buổi sáng sớm vào năm 1977, trong lúc vợ chồng ông đang nhổ mạ để
sửa soạn cấy thì thấy có một người mặc áo dài đen, mặc quần trắng, đầu trần tóc
hớt chải coi trẻ lắm và mang dép da từ trong chợ Hồng Ngự đi ra (từ đó cách chợ
Hồng Ngự mấy cây số). Sau đó, hai vợ chồng đứng dậy chào vì biết người vừa tới
đó là Ông Đạo Nhỏ. Ông Đạo lúc bấy giờ đã 17 tuổi rồi. Thấy hai người đứng dậy
chào thì ông chỉ vô thúng xôi (khi họ đi đồng thì thường đem theo một cái thúng
trong đó có đựng cơm nếp, muối mè và nước uống). Ông chồng hiểu ý, lấy một chén
xôi rắc muối mè rồi đưa cho ông Đạo, ông Đạo ngồi xuống bờ đất ăn ngon lành. Ăn
xong chén xôi, ông chỉ hủ nước. Ông chồng lấy cái chén sạch rót cho một chén
nước đưa cho ông. Uống xong, ông đứng lên chắp tay xá một xá rồi băng ngang
đồng đi về hướng Cao Lãnh. Hai vợ chồng lui cui nhổ mạ để kịp cấy nên lơ là,
lúc đó chỉ độ 8 giờ sáng, nên ông Đạo mất dạng lúc nào cũng không ai hay biết.
Từ đó, Ông Đạo Nhỏ không còn trở về ngôi miếu của ông nữa.
Việc nầy, theo tôi nghĩ là do cái linh ứng của Đức Phật Thầy đã chuyển
kiếp qua Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ rồi sau đó lại chuyển qua Ông Đạo Nhỏ. Sở dĩ
tôi nghĩ như vậy vì khi tôi hỏi sư phụ của tôi, ông đã cho tôi biết.
Sư phụ tôi là một vị hòa thượng người Quảng Ngãi. Năm 1974, ông đã được 104
tuổi rồi. Lúc còn trẻ, ông tu ở Quảng Ngãi rồi sau đó đi ra Hà Nội và qua bên
Tàu. Ông lại đi theo các ông sư Miến Điện về tu ở Miến Điện 5 năm, học ngôn ngữ
và chữ viết Miến Điện rồi lại đi theo mấy ông sư nầy hành hương qua
Sư phụ tôi có thể nhịn đói 3, 5 năm mà không chết và có thể chết 100 ngày
hay 50 ngày rồi sống lại. Ông đã biễu diễn nhiều việc làm tôi phải hết hồn. Bất
cứ ngôn ngữ nào trên thế giới ông đều biết cả. Tôi đã đưa một ông đại tá người
Đức tới thăm ông, lúc đó ông đang ở trong Chợ Lớn được mấy người Tàu cất cho
một cái am nho nhỏ để tu hành cùng với một tiểu đồng, khi người Đức tới hỏi
tiếng Đức thì ông cũng trả lời ngay bằng tiếng Việt. Lúc trước, tôi có dẫn một
đồng bào người Thượng gốc Rhađê biết nói tiếng Việt tới hỏi chuyện với ông bằng
tiếng Rhađê thì ông trả lời bằng tiếng Việt liền. Người nầy hỏi cái gì ông lền
trả lời ngay cái nấy. Có lần, tôi đem ông đại úy người Anh đến thì cũng được
trả lời rất rành rẽ bằng tiếng Việt, khi ông nghe thì hiểu ngay nhưng không nói
được thứ tiếng đó mà trả lời bằng tiếng Việt. Tôi đưa nhiều người ngoại quốc
tới gặp ông đều được trả lời bằng tiếng Việt rồi tôi thông dịch lại bằng tiếng
Anh và đều được thỏa đáng. Sau đó tôi còn đưa một ông đại úy Ấn độ tới thì cũng
như mấy lần trước nghĩa là khi hỏi bằng tiếng Ấn thì được trả lời bằng tiếng
Việt. Sau đó ông khuyên tôi là đừng mắc công đưa người ngoại quốc tới nữa. Ông
tu đến mức là đọc được ngôn ngữ xuất phát từ tư tưởng con người. Người ta nói
gì mặc kệ nhưng ông đọc được tư tưởng của họ nên biết họ muốn hỏi về việc gì vì
tư tưởng họ phát ra lời nói ấy. Rõ ràng là sư phụ tôi đã tu đến cái mức cao
thâm rồi. Sư phụ đã chỉ dạy cho tôi cái pháp gọi là «ngũ hành tương sanh tương khắc» để đở đạn, không bị đạn vô trong
người. Sư phụ còn cho tôi biết, khi mình khấn vái cái gì mình không cần phải
nói ra bằng miệng, mình chỉ nghĩ trong tư tưởng rồi chấp tay làm thinh khấn vái
thì cái lời khấn cầu của mình sẽ tới người nghe liền, chỉ nhìn cái tư tưởng của
mình là người ta biết ngay chớ không cần phải nói ra bằng lời. Luyện pháp «ngũ hành tương sanh tương khắc» là để
khi đạn bắn vô người thì nó bị trợt ra ngoài, nhưng muốn luyện cái pháp môn nầy
phải mất công phu nhiều lắm.
Sư phụ tôi là người không những biết pháp mà còn biết bùa chú nữa. Chẳng
hạn như có hôm, đang ngồi nói chuyện trong bàn tròn trước sân am của ông thì có
một anh du đảng người Tàu say rượu bước vô nói bậy, nói bạ rồi tự kéo ghế ngồi.
Sư phụ tôi nói: «Chú đi ra ngoài chơi!»
Nó nói: «Ngộ không có li!» Ông đưa
cái tay lên như vầy (giống như tung chưởng ra) tức thì tên nầy bật ngữa ra sau
lăn mấy vòng, hoảng hồn chạy tuốt ra ngoài. Còn bên trong am, tôi có cho ông
một cái bàn viết bằng sắt của Mỹ với cái ghế còn rất mới, ở phía sau lưng ông
có một cái tượng Phật bằng vàng do người Tàu đem cúng, nặng năm lượng để lộng
trong một cái hộp bằng kiếng, khiến ai nhìn cũng ham muốn. Nhiều đứa ăn trộm
tới định đánh cắp nhưng khi vừa đưa tay ra thì đứng ngay tại đó luôn cho tới
sáng, đợi ông thức dậy xin tha mạng. Ông đưa tay giải bùa cho nó, nó té xỉu
xuống đất nằm một hồi rồi tỉnh dậy chay đi, nên thấy ông Phật bằng vàng mà
không ai ăn cắp được.
Tiền của ông để hai bên hộc bàn không bao giờ khóa mà không ai dám ăn cắp.
Ông chuyên môn chữa bá bịnh, bịnh nào ông chữa cũng hết. Tuy nhiên, bịnh nào
không chữa khỏi thì ông nói chữa không được. Ông nhìn mặt bịnh nhân là biết
chữa được hay không (người Tàu trong Chợ lớn tin ông ghê lắm), bịnh mà mấy bịnh
viện chê đều đem tới cho ông. Tôi đã chứng kiến việc nầy nhiều lần. Ông hỏi
người bịnh đang nằm ngáp ngáp, ông vừa hỏi vừa lấy tay rờ lên trán rồi ông để
hai ngón tay dưới lòng bàn chân bấm vô một lúc là thấy hết ngáp ngáp. Ông nói: «Ngồi dậy!» là bịnh nhân tức thì ngồi
dậy. Kế đó, ông hỏi thẳng bịnh nhân bịnh tình thế nào rồi viết cho mấy toa
thuốc, căn dặn kỹ lưỡng cách cho uống như thế nào. Nhưng trước khi chữa bịnh,
ông thường đặt vần đề tiền, ông bảo đảm bịnh nầy có thể chữa sống hai năm nữa
hay sáu tháng nữa hoặc một năm nữa. Ông thường nói thẳng vấn đề tiền bạc nếu
thân chủ đồng ý là ông chữa, tùy theo căn bịnh mà ra giá, có thể là năm trăm
ngàn hay tám trăm ngàn hoặc hơn nữa và cũng tùy theo kinh tế của gia đình người
đó. Mà hễ khi nói đến tiền là phải chạy ngay về nhà đem tiền đến thì ông mới
chịu chữa. Thường thì người giàu lấy nhiều, còn người nghèo thì lấy ít. Khi
nhận tiền, ông không cần đếm lại cứ thẩy vô hai hộc tủ đó. Số tiền nầy ông
không xài. Ông có một lô đệ tử nghèo khổ đang làm thuê vác mướn, nếu vợ con gặp
đau yếu thì tới ông, ông chữa trị giúp cho mà còn đưa tiền để về nhà lo chạy
gạo hoặc mua thuốc. Đám nghèo khổ tới chữa bịnh đều được ông cho tiền. Có một
việc ông làm cho tôi sợ là từ năm 1970 đến 1974, mỗi sáng sớm ngày Rằm tháng
Bảy là tôi phải đi vô am của ông, đem ông vô nhà sau tắm rửa cho ông. Lúc bấy
giờ ông già lắm rồi, người của ông còn chừng hơn hai mươi ký lô còn cái vòng
bụng của ông từ đằng trước ra phía sau lưng thì không bằng một gang tay. Thân
thể ông chỉ như bộ xương vì từ năm 1970 đến năm 1974 ông không còn ăn gì nữa
nhưng đi đứng vẫn bình thường, mỗi ngày chỉ uống mấy tách nước trà vậy thôi.
Sáng sớm ngày Rằm tháng Bảy từ năm 1970 tới năm 1974 là tôi phải vô tắm
cho ông (mỗi năm chỉ tắm một lần). Tôi kỳ rửa bằng xà bông sạch sẽ rồi đưa quần
áo cho ông mặc vô. Sau đó ông nằm lên «đi-văng»
đặt ở phòng khách rồi đắp mền lên người. Ông nằm dài ngay ngắn ra đó thẳng hai
tay hai chân rồi niệm «
49 ngày sau lúc 12 giờ trưa thì người trực ở đó cuốn mùng lên, lấy mền
ra thì xác ông vẫn nằm nguyên đó, nhưng từ từ tôi thấy mấy ngón tay ngón chân
của ông bắt đầu nhúc nhích. Sau đó, ông ngồi bật dậy, lấy hai bàn tay chà lên
mặt mấy cái rồi cười «hả hả» trở lại
tươi tỉnh bình thường như cũ. Lúc ông chết giả, tôi có đưa bác sĩ Khả tới thử
nghiệm. Ông Khả đem máy móc y khoa tới, ông dùng máy đo áp suất máu (tâm động
đồ) thì chỉ thấy một đường chạy ngang tức là tim không còn đập, nhưng khi dùng
máy đo Encephalogram kiểm soát bộ óc coi có còn làm việc hay không thì thấy nó
chạy bình thường giống như người đang nằm ngủ. Bác sĩ Khả lúc bấy giờ cũng là
đệ tử của ông.
Tháng Giêng năm 1974 thì ông nói trước: «Ngày Rằm tháng Bảy nầy, thầy sẽ về núi.» (về núi tức là chết
thiệt). Ông nhắn cho 12 người đại đệ tử phải có mặt đầy đủ ở bên ông. Đến chừng
đó, tôi mới biết tôi là người đại đệ tử thứ 12. Ông hẹn 10 giờ mới được gặp
mặt, ai tới trước cũng không được vô. Đúng 10 giờ, chúng tôi bước vô thì ông
ngồi dậy với tư thế xếp bằng. Ông nhắn nhủ rằng: «Cái đời khổ sắp tới rồi! Các con phải rán giữ gìn tâm ý, làm điều thiện
và lo tu hành.» Ông còn nói thêm một câu nữa: «Trước khi đi về thế giới khác, các con nên biết là 49 ngày của 4 năm
sau cùng nầy, thầy đã đi về cõi khác. Thầy để cái xác nằm ở đây nhưng linh hồn
về cõi khác, đường đi nước bước là thầy rành lắm, nơi cõi khác đó, nơi thế giới
khác đó đều có mặt những vị đã tu thành chánh quả. Qua sang năm (tức năm 1975)
thì miền
Khi nói xong câu nầy thì Thầy cho phép đệ tử mỗi người được hỏi một câu
hỏi. Bắt đầu là đại đệ tử thứ nhứt được lên hỏi, mà muốn câu hỏi không cho
người khác biết nên phải kê miệng vô lổ tai ông nói nhỏ rồi kê lổ tai vô ngay
miệng ông để nghe câu trả lời. Người đại sư huynh của tôi là một ông Lục người
Campuchia, ông ở đâu dưới miền
Vậy, khi gần tới ngày 30 tháng Tư năm 1975, tôi đã cho vợ con tôi lên
máy bay đi Mỹ trước theo đám cố vấn Mỹ mà không cần giấy tờ gì hết, vì lúc đó
tôi đang làm thứ trưởng của Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách cứu trợ nạn nhân định
cư. Tôi nghĩ, tôi có khả năng nhịn đói cả tháng nên có thể vô rừng ở hoặc đi bộ
qua Thái Lan cũng dễ dàng nên quyết định ở lại. Cuối cùng, như một phép lạ tôi
được đưa lên trực thăng tại DAO ở Tân Sơn Nhứt bay ra hạm đội Mỹ vào giờ thứ 25
với tư cách là một mục sư Tin Lành chớ không phải là một thiếu tướng của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Nguyễn Văn Hiệp
Comments
Post a Comment